• :
  • :
TIÊM CHỦNG VẮC XIN COVID-19 VÌ SỨC KHỎE CỦA BẠN VÀ NHỮNG NGƯỜI THÂN YÊU. HÃY CHUNG TAY BẢO VỆ MÌNH VÀ CỘNG ĐỒNG TRƯỚC ĐẠI DỊCH COVID-19!
|
A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+

Điểm báo, ngày 13/11/2023

Soyte.hatinh.gov.vn: Đề nghị cấp thẻ BHYT và thanh toán cho đối tượng được ưởng 100% chi phí khám chữa bệnh; Nhận diện những yếu tố nguy cơ để phòng chống bệnh đái tháo đường; Việt Nam đang có chênh lệch mức sinh đáng kể giữa các vùng; Khoảng trống trong đào tạo y khoa.

Đề nghị cấp thẻ BHYT và thanh toán cho đối tượng được hưởng 100% chi phí khám chữa bệnh

Bộ Y tế vừa có công văn đề nghị Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam, Sở Y tế các tỉnh, thành phố, Y tế các bộ, ngành và các cơ quan trực thuộc Bộ Y tế triển khai Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) sửa đổi.

Theo Bộ Y tế, ngày 19/10, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2023/NĐ-CP quy định chi tiết hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật BHYT.

Bộ Y tế đề nghị BHXH Việt Nam chỉ đạo BHXH các địa phương phối hợp với các cơ quan, đơn vị lập danh sách và cấp thẻ BHYT cho các đối tượng đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 75; thực hiện điều chỉnh mức hưởng cho người tham gia BHYT quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị định 146/2018/NĐ-CP lên mức hưởng 100% theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 1 Nghị định 75.

Hướng dẫn tổ chức việc thanh toán bổ sung các chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT của cơ sở y tế vượt tổng mức thanh toán từ ngày 1/1/2019 theo Nghị định 75. Theo Nghị định 75, người tham gia kháng chiến và bảo vệ Tổ quốc được nâng mức hưởng từ 80% lên 100% chi phí khám, chữa bệnh BHYT; người phục vụ người có công với cách mạng sống ở gia đình được nâng mức hưởng từ 80% lên 95%. (Công an Nhân dân, trang 1).

 

Nhận diện những yếu tố nguy cơ để phòng chống bệnh đái tháo đường

Hưởng ứng Ngày Thế giới phòng chống đái tháo đường (14/11) năm 2023, Hiệp hội Phòng chống đái tháo đường thế giới đưa ra thông điệp “Chúng ta cần biết nguy cơ mắc đái tháo đường của mình và biết cách phòng chống bệnh”, để nhắc mọi người hãy lắng nghe cơ thể, tự theo dõi, chăm sóc cuộc sống hằng ngày, phát hiện bệnh sớm, điều trị kịp thời nhằm đẩy lùi căn bệnh này.

Theo số liệu của Hiệp hội Phòng chống đái tháo đường thế giới, trên quy mô toàn cầu, cứ 10 người trưởng thành (từ 20 đến 79 tuổi) thì có hơn một người đang sống chung với bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) tuýp 2. Ước tính tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ ở người trưởng thành đến nay đã tăng hơn ba lần so với năm 2000. Hiện toàn thế giới có khoảng 537 triệu người trưởng thành mắc bệnh ĐTĐ và nếu không có sự can thiệp, kiểm soát thì đến năm 2030 con số này sẽ tăng lên 643 triệu, đến năm 2045 sẽ là 783 triệu người. Bên cạnh đó cũng có khoảng 541 triệu người đang bị rối loạn dung nạp glucose tại thời điểm năm 2021.

Hiệp hội Phòng chống đái tháo đường thế giới nhấn mạnh, nếu không được điều trị kịp thời, bệnh ĐTĐ có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm đến tính mạng hoặc gây tàn phế. Nhưng nếu phát hiện sớm, kiểm soát đường huyết và huyết áp tốt có thể giảm được từ 30 đến gần 80% các biến chứng của bệnh. Khi đã xác định mắc bệnh, người bệnh cần được quản lý, điều trị trong toàn bộ thời gian sống còn lại.

Tại Việt Nam, theo điều tra quốc gia năm 2020 do Bệnh viện Nội tiết Trung ương thực hiện, thì tỷ lệ ĐTĐ toàn quốc là 7,3% và tỷ lệ tiền ĐTĐ là 17,8%. Những nỗ lực trong kiểm soát bệnh ĐTĐ đạt mục tiêu của Chương trình mục tiêu Y tế - dân số theo Quyết định 1125/QĐ-TTg ngày 31/7/2017 là khống chế tỷ lệ ĐTĐ dưới 10%, khống chế tỷ lệ tiền ĐTĐ dưới 20%. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc ĐTĐ không được chẩn đoán hiện nay còn cao (62,6%); tỷ lệ ĐTĐ và tiền ĐTĐ phát hiện mới chỉ đạt 36,1% và 30,5%...

ĐTĐ tuýp 2 là hậu quả của sự tác động qua lại phức tạp giữa yếu tố gien và các yếu tố lối sống. Nếu như các yếu tố không thay đổi được (gien, tuổi và ĐTĐ thai kỳ) thì có rất nhiều yếu tố có thể thay đổi được. Những yếu tố nguy cơ thay đổi được bao gồm: Béo phì, ít hoạt động thể lực, chế độ ăn dư thừa năng lượng, rối loạn dung nạp glucose…

Béo phì là một đặc điểm thường đi kèm trong ĐTĐ tuýp 2 và là một yếu tố nguy cơ của tiền ĐTĐ tuýp 2. Béo phì đã tăng nhanh ở nhiều nhóm dân cư trong vài năm gần đây do hậu quả của sự tác động qua lại giữa yếu tố di truyền và môi trường bao gồm: rối loạn chuyển hóa, ít hoạt động thể lực, ăn quá nhiều so với nhu cầu... Hơn nữa, béo phì là yếu tố thuận lợi góp phần làm tăng huyết áp, tăng cholesterol máu, làm tăng glucose máu...

Nhiều nghiên cứu cho thấy tầm quan trọng của việc thiếu hoạt động thể lực trong việc hình thành tiền ĐTĐ, lối sống tĩnh tại đã kéo theo sự gia tăng tương ứng tỷ lệ béo phì. Theo Tổ chức Y tế thế giới, chỉ riêng việc lười vận động đã gây ra 7% gánh nặng của bệnh ĐTĐ tuýp 2 ở khu vực châu Âu, thừa cân và béo phì chiếm khoảng 65-80% các trường hợp mới mắc bệnh ĐTĐ.

Chế độ ăn cũng là yếu tố quan trọng. Chế độ tiêu thụ nhiều rau, trái cây, cá, thịt gia cầm và ngũ cốc, làm giảm nguy cơ ĐTĐ tuýp 2. Số lượng lẫn chất lượng của chất béo đều ảnh hưởng đến chuyển hóa glucose và sự nhạy cảm insulin. Thức ăn có nhiều chất béo gây rối loạn chuyển hóa glucose bằng nhiều cơ chế khác nhau. Một số nghiên cứu cho thấy ăn nhiều carbohydrate làm tăng tần suất mắc ĐTĐ.

Lạm dụng rượu, bia cũng làm gia tăng ĐTĐ. Nhiều nghiên cứu cũng đã xác định rằng bệnh liên hệ đến uống nhiều rượu và nghiện rượu là đột quỵ, bệnh cơ tim do rượu, nhiều loại ung thư, xơ gan, và viêm tụy, tai nạn... Nghiên cứu ca bệnh đối chứng và sinh thái học chứng tỏ giảm nguy cơ bệnh mạch vành bằng giảm uống rượu mức độ thấp hoặc vừa phải.

Rối loạn lipid máu với sự gia tăng acid béo tự do huyết tương đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển ĐTĐ tuýp 2 thông qua cơ chế gây kháng insulin. ĐTĐ tuýp 2 phát triển bởi vì tế bào tụy không tiết đủ insulin để bù cho tình trạng kháng insulin càng ngày càng tiến triển. Tăng huyết áp cũng là một trong những yếu tố nguy cơ gây bệnh ĐTĐ tuýp 2. Khoảng hai phần ba người bệnh ĐTĐ có tăng huyết áp. Cả hai bệnh ĐTĐ và tăng huyết áp đều làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim.

Hút thuốc lá có liên hệ đến sự đề kháng insulin, là yếu tố nguy cơ của ĐTĐ tuýp 2 ở cả nam lẫn nữ. Nghiên cứu cho rằng thuốc lá tăng 70% nguy cơ của ĐTĐ tuýp 2 và ích lợi của việc ngừng hút thuốc lá đối với ĐTĐ tuýp 2 chỉ có thể thấy sau 5 năm còn để đạt được giống như người không hút thuốc bao giờ thì thời gian ngừng hút phải trên 20 năm.

Stress cấp rõ ràng là có liên quan đến đề kháng insulin, tuy nhiên sự đề kháng trong trường hợp này có khả năng hồi phục. Các nhà nghiên cứu cho rằng glucocorticoid gia tăng lúc bị stress có thể đóng góp vào sự đề kháng insulin. Stress tác động đến sự đề kháng insulin trực tiếp hay gián tiếp thông qua tương tác với leptin dẫn đến tăng nồng độ leptin máu và ức chế hoạt động của leptin, thúc đẩy tình trạng đề kháng leptin, góp phần vào sự đề kháng insulin.

Hiện nay, các đơn vị trong hệ thống y tế đang tập trung triển khai Quyết định số 155/QĐ-TTg ngày 29/1/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch quốc gia phòng chống bệnh không lây nhiễm và rối loạn sức khỏe tâm thần giai đoạn 2022-2025 với nhiều nội dung liên quan tới công tác phòng chống ĐTĐ: Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp chính quyền các cấp; tăng cường phối hợp liên ngành, hoàn thiện các chính sách đến giảm thiểu các hành vi nguy cơ chính; tăng tỷ lệ phát hiện, quản lý, điều trị, chăm sóc người bệnh; phát triển nâng cao năng lực hệ thống để bảo đảm cung cấp dịch vụ phòng chống bệnh…

Mỗi người dân cần biết các yếu tố nguy cơ mắc ĐTĐ gồm: Tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, thừa cân, béo phì, ít vận động thể lực, chế độ ăn, uống thừa năng lượng; lạm dụng rượu, bia, thuốc lá. Mặt khác, thực hiện các hành vi sức khỏe, lối sống lành mạnh trong đó chế độ ăn uống hợp lý, vận động thể lực hằng ngày và áp dụng các biện pháp y tế sớm để giảm thiểu, loại trừ các yếu tố nguy cơ từ sớm. Xét nghiệm đường máu định kỳ hằng năm để phát hiện sớm bệnh ĐTĐ và tình trạng tiền ĐTĐ (nếu có).

ĐTĐ là bệnh mãn tính, phải điều trị lâu dài tới hết đời, khi đã được chẩn đoán mắc bệnh hãy đến các cơ sở y tế để được tư vấn, điều trị sớm để đạt hiệu quả tốt, tránh các biến chứng; không nên tự điều trị để tránh dẫn đến các sai sót và hậu quả đáng tiếc. (Theo báo Nhân dân online).

 

 

Việt Nam đang có chênh lệch mức sinh đáng kể giữa các vùng

Mức sinh thấp kéo dài sẽ để lại nhiều hệ lụy như già hóa dân số nhanh, thiếu hụt lao động, ảnh hưởng an sinh xã hội...

Phát biểu tại hội thảo "Mức sinh thấp tại VN: Thực trạng và giải pháp" do Hội Phụ sản VN tổ chức tại Hà Nội vừa qua, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương cho biết trên thế giới mức sinh ở hầu hết các châu lục đều liên tục giảm và giảm xuống rất thấp so với mức sinh thay thế. Thực tế này dẫn đến thiếu hụt nguồn lao động, các vấn đề về dân số già và chăm sóc người cao tuổi. Dự báo tình trạng thiếu lao động sẽ phổ biến trên toàn thế giới sau năm 2055, ảnh hưởng đến phát triển không bền vững về con người.

Tại VN, thời gian qua, tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế thành công, đạt mức sinh thay thế từ năm 2006 và tiếp tục duy trì đến nay. Tuy nhiên, VN đang đối mặt thực trạng chênh lệch mức sinh đáng kể giữa các vùng. Bên cạnh 33 tỉnh có mức sinh cao thì hiện có 21 tỉnh, thành có mức sinh thấp, thậm chí một số tỉnh mức sinh rất thấp, tập trung ở khu vực Đông Nam bộ, ĐBSCL và duyên hải miền Trung. Các tỉnh mức sinh thấp có quy mô dân số là 37,9 triệu người chiếm khoảng 39,4% dân số cả nước sẽ tác động rất lớn đến phát triển bền vững cho cả nước.

Đáng chú ý, mức sinh thấp không chỉ diễn ra ở một số đô thị, nơi có điều kiện kinh tế phát triển mà còn xuất hiện ở nhiều tỉnh có điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn thuộc khu vực ĐBSCL, nơi chiếm vai trò quan trọng trong việc sản xuất nông nghiệp, đảm bảo an ninh quốc gia về lương thực.

Bên cạnh đó, thông tin tại hội thảo cho biết VN là một trong các quốc gia có tỷ lệ vô sinh cao (khoảng 7,7%), trong đó vô sinh nguyên phát là 3,9% và vô sinh thứ phát là 3,8%, ảnh hưởng đến hàng triệu cá nhân, cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn.

Mức sinh thấp kéo dài sẽ để lại nhiều hệ lụy như già hóa dân số nhanh, thiếu hụt lao động, ảnh hưởng an sinh xã hội… Nhiều nước trên thế giới đã thành công trong việc giảm sinh nhưng chưa có nước nào thành công trong việc đưa mức sinh rất thấp về mức thay thế cho dù có nhiều chính sách khuyến sinh với nguồn lực đầu tư lớn.( Thanh niên, trang 15).

 

Khoảng trống trong đào tạo y khoa

Khoảng trống giữa đào tạo lâm sàng và lý thuyết trong giáo dục y học đang đặt ra những đòi hỏi cấp bách cho khối trường đào tạo y dược trong bối cảnh kỳ thi quốc gia đánh giá năng lực hành nghề do Luật Khám chữa bệnh quy định sẽ triển khai từ năm 2027.

Nhóm nghiên cứu của ThS Cao Thị Ngọc Bích, Trung tâm Kỹ năng và Sáng tạo Mô phỏng Lâm sàn, Trường Đại học (ĐH) Y khoa Phạm Ngọc Thạch đã khảo sát kiến thức về quy trình đo huyết áp (HA) chính xác của bác sĩ thực hành 18 tháng tốt nghiệp tại trường ĐH này. Nghiên cứu được thực hiện vào tháng 10/2022, trên đối tượng là 43 bác sĩ thực hành 18 tháng, tốt nghiệp từ Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch.

Kết quả đánh giá nhìn chung, kiến thức về quy trình đo HA chính xác ở nhóm bác sĩ thực hành 18 tháng không cao. Bác sĩ vẫn chưa có đủ kiến thức về quy trình đo HA chính xác.

Trong nghiên cứu này, 2,3% - 25,6% bác sĩ không biết ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến trị số HA. Một tỷ lệ lớn bác sĩ (trên 46%) trả lời sai câu hỏi cần cho bệnh nhân nghỉ bao nhiêu phút trước khi đo HA. Điều này đã phản ánh đúng thực tiễn đo HA tại phần lớn các bệnh viện đa khoa của Việt Nam, là chỉ sử dụng một kích cỡ túi hơi cho tất cả bệnh nhân người lớn. Chỉ 65% trả lời đúng câu hỏi về lựa chọn máy đo HA phù hợp nhất khi bệnh nhân có loạn nhịp tim hoàn toàn.

Liên quan đến các câu hỏi về kỹ thuật đo HA, gần 50% không biết cần phải ước lượng trước HA tâm thu bằng sờ mạch cánh tay, có thể là hậu quả của việc thiếu kiến thức về khoảng trống HA. Thật vậy, với câu hỏi về khoảng trống HA, 42% bác sĩ trả lời sai.

Thiếu kiến thức về khoảng trống HA là vấn đề cần đặc biệt quan tâm vì bằng chứng cho thấy, khoảng trống HA liên quan đến xơ vữa động mạch cảnh và tăng độ cứng thành động mạch ở bệnh nhân tăng HA. Đặc biệt, hơn 30% bác sĩ không tự tin hoặc chưa rõ kiến thức về quy trình đo HA chính xác.

“Vấn đề này cần được giải quyết sớm, có thể thông qua huấn luyện và cho phản hồi bởi vì đây là đối tượng đã tốt nghiệp, chỉ một thời gian ngắn nữa sẽ làm việc độc lập trong hệ thống chăm sóc sức khỏe, trực tiếp chăm sóc và điều trị cho bệnh nhân”, nhóm nghiên cứu khẳng định. Đồng thời kết luận khảo sát này cho thấy, còn khoảng trống lớn kiến thức về quy trình đo HA đúng ở bác sĩ thực hành 18 tháng tốt nghiệp từ Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch.

Do đó, cần xem xét điều chỉnh lại cách giảng dạy kỹ năng đo HA cho sinh viên của trường để hiệu quả hơn. Ngoài ra, nên xem xét đổi mới hình thức lượng giá sinh viên (đánh giá trình độ người học trong đào tạo y khoa), cùng với việc đào tạo lại cho giảng viên dựa theo khuyến cáo của các Hội tim mạch toàn cầu hoặc Hội tim mạch quốc gia, đồng thời bổ sung các buổi huấn luyện và lượng giá lại mỗi hai năm một lần cho sinh viên là cần thiết để đảm bảo đo HA đúng kỹ thuật, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ y tế.

Hơn nữa, hy vọng rằng kết quả từ khảo sát này có thể giúp cải thiện chất lượng đào tạo nhân viên khối ngành sức khỏe tại Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch.

Một nghiên cứu khác của nhóm giảng viên, bác sĩ Trường ĐH Y Hà Nội đã được thực hiện trên đối tượng sinh viên hệ bác sĩ Y khoa, khóa 2020 - 2026 (493 sinh viên), đề tài Phát hiện khoảng trống trong kỹ năng Y khoa qua kỳ thi đánh giá kỹ năng y khoa. Kết quả cho môn Kỹ năng y khoa I có 11/26 kỹ năng có sinh viên không đạt.

Với môn Kỹ năng y khoa II có 4/25 kỹ năng có sinh viên không đạt. Tỷ lệ sinh viên không đạt ở các nhóm kỹ năng là kỹ năng giao tiếp là 0,2%, kỹ năng thăm khám là 0,4%, kỹ năng thực hành thủ thuật là 0.,2%, kỹ năng phiên giải kết quả có tỷ lệ không đạt cao nhất là 2,8%.

Qua hai khảo sát trên có thể thấy trong y khoa vẫn còn những khoảng trống ở đào tạo lâm sàng và lí thuyết.

Đổi mới đào tạo lý thuyết và lâm sàng

Hội Giáo dục Y học vừa tổ chức Hội nghị giáo dục y khoa toàn quốc năm 2023 có chủ đề “Lượng giá trong giáo dục y học dựa trên năng lực: Thách thức - giải pháp” . Tại đây, GS.TS Lê Quang Cường, Chủ tịch Hội Giáo dục Y học Việt Nam cho hay nội dung quan trọng đang được quan tâm đó là lượng giá trong giáo dục y học.

GS.TS Trần Diệp Tuấn, Chủ tịch hội đồng Trường ĐH Y Dược TPHCM cho biết với chương trình đào tạo y khoa đổi mới, tất cả nội dung của các mô đun, các môn học đều được xây dựng dựa trên chuẩn năng lực, và mục tiêu học tập cụ thể, rõ ràng.

Cấu trúc chương trình mới đảm bảo được tính tích hợp theo chiều ngang giữa các mô đun và môn học trong cùng một năm và tích hợp theo chiều dọc giữa các năm học với nhau. Điều này giúp sinh viên rèn luyện khả năng tư duy tích hợp để có thể giải quyết các vấn đề thực tế trên lâm sàng.

Thực hành lâm sàng sớm và bao gồm thực hành tại bệnh viện và cơ sở y tế cộng đồng cho phép sinh viên có những trải nghiệm đa dạng, phong phú, tiếp cận với chăm sóc ban đầu tại cộng đồng và hệ thống y tế cơ sở.

Các học phần tự chọn cho phép sinh viên theo đuổi những sở thích và đam mê riêng, và chuẩn bị cho sự lựa chọn chuyên ngành trong tương lai.

Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn cho biết trường ĐH đã có những sáng kiến, triển khai theo mô hình của các nước tiên tiến trong việc dạy và học, kiểm tra, đánh giá năng lực. Theo Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn, các ý kiến thảo luận giúp Bộ GD&ĐT, Bộ Y tế hoàn thiện, xây dựng chuẩn chương trình đào tạo trong lĩnh vực khoa học sức khỏe.

Trên cơ sở này, các trường sẽ triển khai nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô đào tạo để đáp ứng quy hoạch tổng thể quốc gia với yêu cầu 19 bác sĩ/1 vạn dân vào năm 2030. (Tiền phong, trang 6).

 

Hàng trăm trẻ em nhập viện vì mắc đái tháo đường mỗi năm, tốc độ trẻ hóa ngày càng nhanh

PGS.TS Trần Minh Điển - Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết, chục năm trước bệnh viện chỉ có khoảng 10 ca đái tháo đường mỗi năm nhưng gần đây có hàng trăm ca mỗi năm, cả trẻ sơ sinh cũng mắc…

Cuối tháng 10 vừa qua, Bệnh viện Đa khoa Đức Giang (Hà Nội) tiếp nhận một bé trai 4 tuổi nhập viện do biến chứng nặng của đái tháo đường. Bé trai có tiền sử khỏe mạnh, thế nhưng trong 3 tuần trước khi nhập viện đã sụt 3kg, tiểu nhiều ban đêm, ho, sốt kèm đờm, khò khè….

Gia đình đưa bé đi khám thì bất ngờ được bác sĩ thông báo mắc đái tháo đường, chỉ định nhập viện điều trị nội trú. Kết quả xét nghiệm khí máu, test đường huyết mao mạch cho thấy bệnh nhân trong tình trạng nhiễm toan nặng, phải đặt nội khí quản, bù dịch, truyền insulin tĩnh mạch liên tục, điều chỉnh rối loạn thăng bằng kiềm toan, rối loạn điện giải.

Thông tin về bệnh đái tháo đường trẻ em tại chương trình "Thắp sáng xanh lam" diễn ra tối 11-11 tại Hà Nội, PGS.TS Trần Minh Điển - Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết, số trẻ mắc đái tháo đường đang gia tăng nhanh.

Tại Việt Nam, số liệu tích luỹ đến nay có khoảng 1.750 trẻ mắc đái tháo đường tuýp 1 được chẩn đoán ở các bệnh viện nhi lớn trên cả nước. Riêng Bệnh viện Nhi Trung ương đang theo dõi, điều trị cho ngoại trú khoảng 1.000 trẻ bị đái tháo đường tuýp 1, bệnh dễ nhầm lẫn với các bệnh khác do ảnh hưởng nhiều đến tuần hoàn và tri giác.

Theo ông Điển, chục năm trước bệnh viện chỉ tiếp nhận khoảng 10 ca mỗi năm nhưng những năm gần đây có hàng trăm ca mỗi năm, có cả trẻ sơ sinh cũng mắc đái tháo đường. Trong 1.000 ca bệnh viện đang theo dõi, điều trị, khoảng 30% bệnh nhân ở Hà Nội, còn lại 70% ở các tỉnh lân cận.

Đái tháo đường type 1 hay còn gọi là đái tháo đường phụ thuộc Insulin, chủ yếu hay gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên, do tuyến tụy không còn khả năng sản xuất đủ Insulin. Bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường type 1 cần được điều trị bằng Insulin thì mới có cơ hội sống.

Về tình hình mắc đái tháo đường nói chung, TS Vương Ánh Dương - Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh (Bộ Y tế) cho biết, theo điều tra năm 2012 của Bộ Y tế phối hợp với Tổ chức thế giới cho thấy chỉ khoảng hơn 4% dân số Việt Nam mắc đái tháo đường. Nhưng đến năm 2020, con số này đã lên đến gần 7,3%. Như vậy gần 10 năm, tỷ lệ dân số mắc đái tháo đường ở nước ta tăng gần gấp đôi.

Bộ Y tế kêu gọi người dân có thể phòng ngừa bệnh đái tháo đường cũng như các bệnh không lây nhiễm khác... bằng cách thực hiện lối sống lành mạnh, có trách nhiệm với sức khoẻ của mình, tập trung vào 4 vấn đề: Không hút thuốc; Hạn chế tối đa rượu bia; Tích cực rèn luyện thể lực; Khẩu phần ăn hợp lý.

16% dân số Hà Nội mắc tiền đái tháo đường

Theo báo cáo của Sở Y tế Hà Nội, năm 2021, kết quả điều tra về đái tháo đường của người dân từ 18 - 69 tuổi trên địa bàn thành phố cho thấy, tỷ lệ tiền đái tháo đường là 16%; tăng đường huyết là 10,2%; tăng huyết áp 30,8%, tỷ lệ thừa cân, béo phì tăng 19,2%.

Phó Giám đốc Sở Y tế Hà Nội Vũ Cao Cương cho biết, đái tháo đường là một bệnh mạn tính, tiến triển với nhiều biến chứng nguy hiểm như: Tổn thương mắt có thể gây ra mù lòa; suy thận; nhiễm trùng bàn chân, cắt cụt chi; tăng huyết áp, tai biến mạch não, nhồi máu cơ tim… làm giảm chất lượng sống của người bệnh và có thể dẫn đến tử vong.

Để dự phòng sớm, quản lý, điều trị kịp thời nhằm giảm các biến chứng của bệnh đái tháo đường, theo ông Vũ Cao Cương, khi có các biểu hiện ban đầu của tiền đái tháo đường hoặc các yếu tố nguy cơ khác của bệnh như: Thừa cân - béo phì, tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid…, người dân cần được tư vấn, phát hiện sớm. (An ninh Thủ đô, trang 6)

Thu Hòa tổng hợp

 


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Khảo sát
Bạn cảm thấy chất lượng dịch vụ y tế do ngành Y tế Hà Tĩnh cung cấp như thế nào?
BẢN ĐỒ TỈNH HÀ TĨNH
Thống kê truy cập
Hôm nay : 3.071
Tháng 05 : 26.931
Năm 2024 : 746.230
Năm trước : 2.326.488
Tổng số : 9.544.744