Chiều 21/9, không ghi nhận ca mắc mới COVID-19, Việt Nam chữa khỏi 947 bệnh nhân
Bản tin của Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch COVID-19 chiều ngày 21/9 cho biết không có ca mắc mới COVID-19. Đến nay cũng đã 19 ngày, Việt Nam không ghi nhận ca mắc ở cộng đồng. Trong ngày có 5 bệnh nhân được công bố khỏi bệnh, nâng số ca khỏi tại Việt Nam lên 947 ca.
Số ca mắc ở Việt Nam:
- Tính đến 18h ngày 21/9: Việt Nam có tổng cộng 691 ca mắc COVID-19 do lây nhiễm trong nước, trong đó số lượng ca mắc mới tính từ ngày 25/7 đến nay: 551 ca tại 15 tỉnh, thành phố gồm: Đà Nẵng (389), Quảng Nam (96), Hải Dương (16), Hà Nội (11), TP. Hồ Chí Minh (08), Quảng Trị (07), Bắc Giang (06), Quảng Ngãi (05), Lạng Sơn (04), Đắk Lắk (03), Đồng Nai (02), Thái Bình (01), Hà Nam (01), Thanh Hóa (01) và Khánh Hòa (01).
- Tính từ 6h đến 18h ngày 21/9: 0 ca mắc mới, trong đó có 0 ca nhập cảnh được cách ly ngay.
Đây là ngày thứ 19 liên tiếp không ghi nhận ca mắc COVID-19 mới trong cộng đồng. Đến nay, Việt Nam vẫn ghi nhận 1.068 trường hợp mắc COVID-19.
Hiện nay, cơ bản các ổ dịch đã được kiểm soát, tuy nhiên tại các đô thị lớn, mật độ dân cư cao, nguy cơ lây nhiễm còn hiện hữu nếu như vẫn còn tình trạng chủ quan, lơ là của người dân đối với việc thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch như không đeo khẩu trang khi ra ngoài, tụ tập ăn uống, vui chơi đông người…
Các địa phương có ca nhiễm COVID-19 cũng đã cơ bản trở lại trạng thái bình thường.
Tại TP. Hồ Chí Minh đã 52 ngày không ghi nhận ca mắc mới COVID-19 tại cộng đồng.
Tại TP Hà Nội cũng đã qua 33 ngày không ghi nhận ca mắc mới COVID-19 tại cộng đồng
Tại Hải Dương là 22 ngày không ghi nhận ca mắc mới COVID-19 tại cộng đồng.
Từ 23/7 - 20/9, thực hiện 683.693 xét nghiệm trong tổng số 1.188.016 xét nghiệm Realtime RT-PCR từ đầu dịch; Từ 23/7 - 20/9, Đà Nẵng đã thực hiện 176.848 xét nghiệm (20/9 xét nghiệm 99 mẫu); Hà Nội thực hiện 125.339 xét nghiệm (20/9 xét nghiệm 260 mẫu); Hồ Chí Minh đã thực hiện 125.943 xét nghiệm (20/9 xét nghiệm 530 mẫu). Hiện nay, tổng số người đã được xét nghiệm là 1.365.722 lượt người.
Số người cách ly: Tổng số người tiếp xúc gần và nhập cảnh từ vùng dịch đang được theo dõi sức khỏe (cách ly): 24.626, trong đó:
- Cách ly tập trung tại bệnh viện: 385
- Cách ly tập trung tại cơ sở khác: 15.294
- Cách ly tại nhà, nơi lưu trú: 8.947
Tình hình điều trị: Theo báo cáo của Tiểu ban Điều trị Ban chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19: trong ngày có 5 bệnh nhân được công bố khỏi bệnh gồm:
+ BN892 tại Bệnh viện dã chiến Hòa Vang
+ 2 bệnh nhân tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cơ sở Đông Anh: BN790, BN864
+ BN1022 tại Bệnh viện nhiệt đới tỉnh Hải Dương
+ BN1050 tại Bệnh viện Lao và bệnh phổi Cần Thơ
Các bệnh nhân này sau khi khỏi bệnh sẽ tiếp tục theo dõi sức khoẻ, thực hiện cách ly tại nhà theo quy định của Bộ Y tế.
Như vậy, đến thời điểm này, nước ta đã chữa khỏi cho 947 bệnh nhân COVID-19/1.068 ca mắc.
Tính đến thời điểm này trong số các bệnh nhân COVID-19 đang điều trị tại các cơ sở y tế, số ca âm tính lần 1 với SARS-CoV-2: 15 ca; Số ca âm tính lần 2 với SARS-CoV-2: 3 ca, số ca âm tính lần 3 là 19 ca.
Báo cáo của Tiểu ban Điều trị cũng cho biết, trong số các bệnh nhân đang điều trị hiện có trường hợp bệnh nhân 793 (BN793) đang điều trị ở BV Bệnh nhiệt đới TW cơ sở 2 hiện là người duy nhất có tình trạng nặng, tiến triển sức khoẻ ổn định. Hiện bệnh nhân đang thở oxy, đã chuyển âm tính ít nhất 1 lần với SARS-CoV-2.
BN793- người đàn ông 58 tuổi quê Bắc Giang - đã được kết thúc ECMO (tim phổi nhân tạo) từ ngày 4/9, rút ống nội khí quản ngày 5/9. Đây là một trong các bệnh nhân có diễn biến nặng, nguy kịch điều trị tại Bệnh viện này, giai đoạn 2. Đến 7/9, bệnh nhân thở oxy kính mũi, huyết động ổn định. Bệnh nhân đã có thể tự ăn đường miệng được. Đây là ca bệnh COVID-19 nguy kịch thứ 2 phải dùng ECMO (tại BV Bệnh nhiệt đới TW (sau bệnh nhân 19) và thở máy xâm nhập được điều trị thành công.
Đến thời điểm này số ca tử vong ở nước ta là 35 ca. Đa phần các trường hợp tử vong ở nước ta đều là người cao tuổi, trên nền bệnh lý nặng như suy thận mạn giai đoạn cuối, ung thư máu giai đoạn cuối không đáp ứng hoá chất, hội chứng mạch vành, suy hô hấp cấp, thoái hoá đa khớp, tăng huyết áp, suy thượng thận mạn, đái tháo đường tuyp 2, nhiễm trùng huyết, viêm phổi, suy kiệt, suy đa tạng.