4 kỹ thuật cứu sống bệnh nhân tim mạch
Cho tới nay, những tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực can thiệp tim mạch đã giúp rất nhiều bệnh nhân thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, đưa họ trở lại cuộc sống bình thường và điều đáng mừng là những kỹ thuật này đã được các thầy thuốc Việt Nam áp dụng thành công tại nhiều trung tâm tim mạch lớn trên cả nước, trong đó có Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện E Trung ương.
Suy tim giai đoạn cuối
Các trường hợp bệnh tim không được điều trị hoặc điều trị không thỏa đáng sẽ dẫn tới suy tim và suy tim giai đoạn cuối (end-stage cardiac failure). Khi suy tim đã ở giai đoạn này, các biện pháp điều trị hầu như không còn hiệu quả và lối thoát duy nhất để cứu sống bệnh nhân là phẫu thuật ghép tim. Tuy nhiên, khó khăn là ở chỗ nguồn cung cấp tim từ người hiến tạng lại rất nhỏ so với số lượng khổng lồ những bệnh nhân cần được ghép tim.
Để giải quyết vấn đề này, các nhà khoa học đã sáng chế ra một thiết bị hỗ trợ tim - LVAD (left ventricular assist device - thiết bị hỗ trợ chức năng thất trái). Thiết bị này là một cái bơm, một đầu được cấy vào tâm thất trái và một đầu gắn vào động mạch chủ. Khi hoạt động, nó sẽ giúp tâm thất trái hoạt động được tốt hơn khi bơm máu ra hệ thống động mạch ngoại vi. Thực nghiệm đã cho thấy, LVAD không những giúp bệnh nhân sống lâu hơn để chờ cơ hội được ghép tim mà còn tạo ra được một cuộc sống tương đối kéo dài và thoải mái.
Bệnh van động mạch chủ
Ở người trên 70 tuổi hay gặp bệnh lý hẹp van động mạch chủ (ĐMC) do thoái hóa. Ở lứa tuổi này, việc phẫu thuật thay van sẽ có nhiều nguy cơ do tuổi tác và các bệnh lý thường gặp ở người già. Mới đây, một phương pháp mới đã được áp dụng dùng để thay van ĐMC mà không cần phải mở ngực hoặc sử dụng tim phổi máy. Đó là phương pháp thay van ĐMC qua catheter (transcatheter aortic valve replacement). Các bác sĩ sẽ sử dụng catheter đi từ động mạch đùi (hoặc tĩnh mạch đùi, qua mỏm tim) để tiếp cận và thay van ĐMC.
Phẫu thuật tim xâm lấn tối thiểu
Từ trước đến nay, phẫu thuật tim thường quy bắt buộc phải mở ngực, cắt xương ức và sử dụng tim phổi máy và như vậy sẽ làm tăng nguy cơ các biến chứng cho bệnh nhân. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, các thiết bị hỗ trợ mổ tim đã ngày càng được cải tiến và các phương pháp mổ truyền thống cũng dần được thay thế bằng các phương pháp ít xâm lấn hơn. Các bác sĩ chỉ cần mở ngực tối thiểu sau đó tiến hành phẫu thuật với sự trợ giúp của dụng cụ. Đây được gọi là phương pháp phẫu thuật tim xâm lấn tổi thiểu (Minimally Invasive Cardiac Surgery - MICS). Phương pháp này có rất nhiều ưu điểm như đường mở ngực nhỏ, ít đau, ít nguy cơ nhiễm khuẩn, chi phí thấp, thời gian nằm viện ngắn, cải thiện nhanh chức năng phổi sau phẫu thuật, lành vết thương nhanh và tính thẩm mỹ cao (một điều cực kỳ quan trọng đối với bệnh nhân trẻ tuổi, bệnh nhân là nữ giới).
Phồng động mạch chủ
Phồng ĐMC (ĐMC ngực, ĐMC bụng) có căn nguyên do bệnh lý tăng huyết áp, xơ vữa động mạch hoặc các bất thường về mặt di truyền học. Khi ĐMC bị giãn to sẽ vô cùng nguy hiểm bởi chỗ phình, tách thành có thể vỡ bất cứ lúc nào khiến cho bệnh nhân có thể tử vong ngay tức khắc. Người bị phồng tách ĐMC chả khác nào mang trong người một quả... lựu đạn. Việc điều trị phẫu thuật truyền thống (mổ mở, cắt bỏ khối phồng, nối ghép đoạn mạch nhân tạo...) mặc dù có thể giải quyết được nguy cơ nhưng cũng có nhiều biến chứng, phải truyền nhiều máu, khó thực hiện với bệnh nhân cao tuổi, sức khỏe yếu, đoạn mạch xơ vữa quá dài, thời gian nằm viện lâu.... Nhằm khắc phục các nhược điểm trên, kỹ thuật đặt stent ĐMC đã ra đời hay còn được gọi là phương pháp sửa phồng ĐMC qua can thiệp nội mạch (endovascular aneurysm repair). Đây là phương pháp xâm nhập tối thiểu. Qua đường ĐM đùi, một đoạn mạch nhân tạo (endograft) sẽ được đưa vào lòng mạch, tới chỗ ĐMC bị phồng và được cố định, thay thế đoạn mạch bị phồng. Kỹ thuật này có rất nhiều ưu điểm như ít xâm lấn, thời gian tiến hành ngắn, bệnh nhân có thể xuất viện nhanh hơn và ít biến chứng hơn hẳn phương pháp mổ mở truyền thống.
Thay cho lời kết
Không có gì là không thể, sự sáng tạo trong khoa học kỹ thuật là không có giới hạn và trong y học, điều này cũng không là ngoại lệ. Hy vọng trong tương lai, các phương pháp mới, các kỹ thuật mới sẽ liên tục được áp dụng trong lĩnh vực y học nói chung và tim mạch học nói riêng trong cuộc chiến chống lại bệnh tật, gìn giữ sức khỏe cho con người.
Theo: Báo SKĐS